Operon trp Operon

Được phát hiện vào năm 1953 bởi Jacques Monod và các đồng nghiệp, operon trp trong E. coli là operon ức chế đầu tiên được phát hiện. Trong khi operon lac có thể được kích hoạt bởi một chất hóa học (allolactose), thì operon tryptophan (Trp) lại bị ức chế bởi một chất hóa học (tryptophan). Operon này chứa năm gen cấu trúc: trp E, trp D, trp C, trp B, và trp A, mã hóa cho enzyme tryptophan synthetase. Nó cũng chứa một promoter liên kết với RNA polymerase và một operator ngăn chặn việc phiên mã, nếu protein được tổng hợp bởi gen ức chế (trp R) liên kết với vùng operator này. Nếu như trong operon lac, lactose liên kết với protein ức chế và giải ức chế phiên mã gen, thì trong operon trp lại ngược lại, tryptophan liên kết với protein ức chế và ức chế phiên mã gen. Cũng không giống như operon lac, operon trp còn có một cơ chế điều hòa khác liên quan đến chuỗi polypeptide khi dịch mã.[20] Đây là một ví dụ về mô hình đồng ức chế.